Để đảm bảo cho đại hội diễn ra an toàn, công tác chuẩn bị được thực hiện khẩn trương. Từ tháng 8/1969, Văn phòng Tỉnh ủy cử đồng chí Nguyễn Chính, cán bộ nghiên cứu mang công văn của Thường trực Tỉnh ủy đến gặp đồng chí Sáu Do (Phạm Xuân Thâm), Bí thư Ban Cán sự Nam Trà báo cáo kế hoạch xin huy động dân công ở huyện Nam Trà My để xây dựng hội trường và chuẩn bị cơ sở vật chất phục vụ đại hội trên 400 người. Thường trực Huyện ủy Nam Trà My đã giúp huy động dân công ở các xã Giác, Kót, dọc suối nước Tong và Nước Vin tham gia xây dựng cơ sở vật chất, hội trường phục vụ đại hội tại xã Kót. Cùng với các hoạt động chuẩn bị, xây dựng cơ sở vật chất đảm bảo phục vụ cho đại hội, công tác tăng gia sản xuất cũng được chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện. Bên cạnh đó, bộ phận phục vụ đã tích cực vận động đồng bào các dân tộc trong xã và những vùng lân cận đóng góp lương thực, thực phẩm nhằm đảm bảo lương thực, thực phẩm cung cấp phục vụ cho đại hội.
Với tinh thần chuẩn bị khẩn trưởng và tuyệt đối an toàn, từ ngày 16 đến 30/11/1969, tại nóc Ông Đề, Đảng bộ tỉnh Quảng Nam tiến hành đại hội lần thứ VIII. Mặc dù tình hình chiến trường hết sức ác liệt, điều kiện đi lại rất khó khăn, nhưng đại biểu về dự Đại hội rất đông đủ. Đồng chí Võ Chí Công - Bí thư Khu ủy 5, thay mặt Ban Thường vụ Khu ủy 5 về dự và phát biểu chỉ đạo đại hội.
Đại hội đã kiểm điểm sâu sắc các mặt công tác của tỉnh từ sau Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đến cuối năm 1969: “Về quân sự, Đại hội nhận định: Tuy có tiêu hao nhiều sinh lực địch, nhưng “hiệu suất chiến đấu nói chung thấp, ít có trận nào tiêu diệt gọn một đơn vị địch, phong trào du kích chiến tranh phát triển không đều, quân số giảm sút...”. Về chống càn quét bình định, “do chủ quan không thấy hết âm mưu thâm độc của địch nên thiếu chuẩn bị mọi điều kiện để đánh trả có hiệu quả, nhiều nơi bị bất ngờ, có lúc dao động, chệnh choạng, thiếu bình tĩnh”. Về diệt kẹp giành dân, Đại hội xác định đây là một khuyết điểm hết sức nghiêm trọng của Đảng bộ tỉnh, vì khả năng có nhiều, đáng lẽ ta phải giành được nhiều, nhưng ngược lại, không giành được dân mà lại để mất dân. Về chỉ đạo ba vùng, “tuy có chú ý hướng trọng điểm, nhưng nhẹ chỉ đạo miền núi, chưa tập trung xây dựng vùng giải phóng vững mạnh, sản xuất kém phát triển, ruộng đất bỏ hoang hóa nhiều”. Về công tác xây dựng Đảng, tuy có tiến hành hai đợt xây dựng tổ chức cơ sở xã thôn, nâng cao được một bước chất lượng lãnh đạo của chi bộ xã, nhưng “công tác phát triển đảng viên mới quá chậm, không bù được số đảng viên hy sinh và bị xử lý ra khỏi Đảng. Đảng viên hợp pháp ít, đào tạo, bồi dưỡng không đáp ứng kịp yêu cầu”.
Về chủ trương, sau khi đánh giá rõ âm mưu và thủ đoạn chiến tranh mới của đế quốc Mỹ, đại hội xác định nhiệm vụ trung tâm của năm 1970 là: “động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân trong tỉnh ra sức chống “bình định” của Mỹ-ngụy, giữ dân và ra sức diệt kẹp giành dân, mở rộng và xây dựng vùng giải phóng. Đại hội chủ trương: Tích cực xây dựng thực lực của ta về chính trị, quân sự, kinh tế, nhằm tạo sự chuyển biến mới, cùng với toàn khu, toàn miền đấu tranh giành thắng lợi mới. Tiếp tục nâng cao chất lượng lãnh đạo của chi bộ, phát triển đảng viên”.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 29 đồng chí. Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 07 đồng chí: Trần Thận, Đỗ Thế Chấp, Trần Đình Hiếu, Phan Ngọc Ánh, Võ Văn Đoàn (Võ Văn Quỳnh), Nguyễn Thành, Phạm Xuân Thâm. Đồng chí Trần Thận được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Đỗ Thế Chấp, Trần Đình Hiếu được bầu giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy.