Chào mừng bạn đến với Trang thông tin điện tử Đảng Bộ tỉnh Quảng Nam !

Chi tiết tin

Tổng quan về Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982)

Ngày đăng: 13:19 | 10/04/2013 Lượt xem: 30537

(BBT) Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (thường được gọi tắt là Công ước Luật Biển 1982- UNCLOS 1982) được thông qua tại thành phố Môn-tê-gô-bay của Gia-mai-ca vào ngày 10/12/1982. Công ước đã có hiệu lực từ ngày 16/11/ 1994 và hiện nay có 161 thành viên tham gia, trong đó có các nước ven Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a, Xin-ga-po và Bru-nây. Đây là là công cụ pháp lý quan trọng để Việt Nam bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông. Chúng tôi xin giới thiệu “Tổng quan về công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982)” có liên quan đến biển đảo Việt Nam.

I. BỐI CẢNH RA ĐỜI UNCLOS 1982.
Luật biển Quốc tế phát triển cùng với sự đấu tranh và điều hòa giữa hai nguyên tắc lớn là tự do biển cả và chủ quyền của quốc gia trên biển. Đến đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia biểu lộ ý muốn mở rộng quyền tuyên bố chủ quyền khai thác các nguồn tài nguyên khoáng sản, bảo vệ nguồn cá và có các phương tiện để thực thi kiểm soát ô nhiễm. Hội Quốc liên đã tổ chức một Hội nghị năm 1930 tại Hague để bàn về điều này từ ngày 13/3 đến 12/4/1930 với 47 quốc gia tham dự, việc pháp điển hóa Luật Biển với các vấn đề: nguyên tắc tự do hàng hải, chế độ pháp lý của lãnh hải, đường cơ sở, quy định qua lại không gây hại của tàu thuyền và chế độ pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải. Hội nghị tuy thất bại trong việc đưa ra một bề rộng lãnh hải chung, nhưng đã công nhận lãnh hải của các quốc gia rộng ít nhất là 3 hải lý (mỗi hải lý bằng l.852 m) và là nột bộ phận của lãnh thổ quốc gia, hình thành quy định về vùng tiếp lãnh hải (1).
Hội nghị lần thứ I của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1958 tổ chức tại Giơneve từ ngày 24/2 đến ngày 29/4/1958. Hội nghị đã đạt được những bước tiến quan trọng về lập pháp, cho ra đời 4 Công ước: Công ước về Lãnh hải (có hiệu lực từ ngày 10/9/1964 với 48 quốc gia là thành viên); Công ước về Biển cả (có hiệu lực từ ngày 30/9/1962 với 59 quốc gia là thành viên); Công ước về Đánh cá và Bảo tồn các tài nguyên sinh vật của biển cả (có hiệu lực từ ngày 20/3/1966 với 54 quốc gia là thành viên). Các Công ước này đã pháp điển hóa nhiều nguyên tắc và quy phạm của luật tập quán (như: qua lại không gây hại trong lãnh hải) và đã đưa ra nhiều khai miện mới (như khái niệm Thềm lục địa). Nhưng các Công ước này thất bại trong việc thống nhất bề rộng lãnh hải (các quốc gia yêu sách tới 5 loại bề rộng lãnh hải khác nhau) và trong việc đưa ra một khái niệm mơ hồ về xác định ranh giới của Thềm lục địa (2).
Đến năm 1960, Hiên Hợp quốc tổ chức Hội nghị về Luật Biển lần thứ II; sau 6 tuần Hội nghị ở Geneva từ ngày 17/3 đến 26/4/1960, các quốc gia đã không đạt được thêm những thỏa thuận mới do không tìm được tiếng nói chung về vấn đề bề rộng lãnh hải, tàu quân sự…(3) Vào năm 1967, vấn đề về các tuyên bố khác nhau về lãnh hải đã được nêu ra trong Liên Hợp quốc.
Và Hội nghị Liên Hợp quốc lần thứ III về Luật Biển (tiếng Anh: Third United Nations Convention on Law of the Sea- viết tắt là: UNCLOS III) được tại chức tại New York năm 1973 đã cố gắng giảm khả năng các nhóm quốc gia thống trị đàm phán, Hội nghị dùng một quy trình đồng thuận thay cho bỏ phiếu lấy đa số; Hội nghị có 11 phiên họp, kéo dài trong 9 năm từ tháng 12/1973 đến tháng 12/1982. Hội nghị đã đóng góp quan trọng vào tiến trình pháp điển hóa Luật Biển Quốc tế. Cộng đồng Quốc tế đã thừa nhận một nguyên tắc mới do Đại sứ Malta đưa ra tại phiên họp thứ 22 Đại Hội đồng Liên Hợp quốc ngày 17/8/1967, coi vùng biển nằm ngoài vùng tài phán quốc gia là di sản chung của nhân loại. Hội nghị đã cho ra đời Công ước Luật Biển 1982 - UNCLOS 1982. Một loạt các quy phạm mới được bổ sung vào Dự thảo Công ước, được thông qua với 130 phiếu. Văn bản cuối cùng được ký kết tại thành phố Môn-tê-gô-bay của Gia-mai-ca ngày 10/12/1982 bởi 117 quốc gia và thực thể, trong đó có Việt Nam. Công ước Luật Biển 1982 thực sự là một bản Hiến pháp mới về biển của cộng đồng Quốc tế. Mỹ và số đông các nước công nghiệp phát triển, trừ Pháp, không ký kết và phản đối Phần XI của Công ước về chế độ quản lý và khai thác đối với khu vực đáy đại dương được coi là tài sản chúng của nhân loại, đặc biệt là thể thức điều hành của Cơ quan Quyền lực Đáy đại dương. Và để công ước thực sự có tính phổ cập và tạo điều kiện cho các cường quốc tham gia, theo sáng kiến của Tổng Thư ký Liên Hợp quốc, một thỏa thuận mới đã được ký kết vào ngày 29/7/1994 cho phép thay đổi nội dung của Phần XI của Công ước.
Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982) có hiệu lực từ ngày 16/11/1994, một năm sau khi Guyana - nước thứ 60 ký Công ước. Đến nay đã có 161 nước phê chuẩn. Công ước có 17 phần, gồm 320 điều khoản; 9 phụ lục với hơn 100 điều khoản và 4 nghị quyết kèm theo.
 
Các vùng biển theo Công ước Luật Biển năm 1982

II. CÁC NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA UNCLOS 1982.
1. Các nguyên tắc của Luật Biển Quốc tế được quy định trong UNCLOS 1982.
1.1. Nguyên tắc tự do biển cả.
Biển cả tồn tại khách quan cùng với các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của quốc gia ven biển. Do không thuộc sở hữu của bất kỳ quốc gia nào nên quy chế pháp lý của Biển cả là quy chế tự do, thể hiện trên hai khía cạnh: Thứ nhất, các quốc gia có quyền và lợi ích khác nhau trong khu vực biển cả; Thứ hai, không có sự phân biệt đối xử giữa các quốc gia có vị trí và hoàn cảnh địalý khác nhau khi tham gia sử dụng và khai thác Biển cả.
Theo quy định tại Điều 87 của Công ước Luật Biển 1982, nguyên tắc tự do biển cả được cụ thể hóa thành các quyền tự do cơ bản, là cơ sở để hình thành quy chế pháp lý của Biển cả và Vùng. Quyền tự do này đặc biệt bao gồm: Tự do hàng hải; Tự do hàng không; Tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm; Tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được pháp luật cho phép; Tự do đánh bắt hải sản; Tự do nghiên cứu khoa học. Mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do này phải tính đến lợi ích của việc thực hiện quyền tự do trên biển cả của các quốc gia khác, cũng như đến các quyền được Công ước thừa nhận liên quan đến hoạt động trong vùng.
1.2. Nguyên tắc đất thống trị biển.
Nguyên tắc này được Điều 76 của Công ước Luật Biển 1982 khẳng định: “Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và vùng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn”.
Theo nguyên tắc, việc mở rộng chủ quyền của quốc gia ra biển không thể tách rời yếu tố chủ quyền lãnh thổ. Yếu tố lãnh thổ theo ghi nhận của nguyên tắc này là lãnh thổ đất (bao gồm cả đảo tự nhiên và quần đảo). Nguyên tắc “Đất thống trị biển” có ý nghĩa quan trọng đối với các quốc gia ven biển, nhất là các quốc gia đang phát triển. Nó là cơ sở để khẳng định chủ quyền, quyền tài phán của quốc gia trên biển, góp phần giải quyết công bằng và hiệu quả tranh chấp trên biển giữa các quốc gia.
1.3. Nguyên tắc sử dụng biển cả vì mục đích hòa bình.
Nguyên tắc này được Điều 88 Công ước Luật Biển 1982 quy định: “Biển cả được sử dụng vào các mục đích hòa bình”.
Biển cả là vùng biển chung của cộng đồng quốc tế với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng. Việc sử dụng biển cả đúng cách sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của nhân loại; ngược lại, sử dụng biển cả một cách tiêu cực sẽ đe dọa tới hòa bình và an ninh quốc tế. Vì vậy, quy chế pháp lý của biển cả phải được xây dựng đảm bảo vùng biển này chỉ được sử dụng vì các mục đích hòa bình.
1.4. Nguyên tắc Vùng và tài nguyên thuộc Vùng là di sản chung của nhân loại.
Theo Điều 136 Công ước Luật Biển 1982, Vùng và tài nguyên của Vùng là di sản chung của loài người. Quy định này loại bỏ sự độc quyền chiếm đoạt đối với bất kỳ nguồn tài nguyên nào trên Vùng. Nguyên tắc này và nguyên tắc tự do biển cả là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng và đảm bảo thực thi chế độ pháp lý đối với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên của Vùng. Trong cách xử sự chung liên quan đến Vùng, các quốc gia tuân theo quy định của Công ước Luật Biển 1982, các nguyên tắc được nêu trong Hiến chương Liên Hợp quốc và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế, với sự quan tâm giữ gìn hòa bình, an ninh, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và hiểu biết lẫn nhau (Điều 138 Công ước Luật Biển 1982).
1.5. Nguyên tắc bảo vệ và khai thác hợp lý các sinh vật sống trên biển.
Liên quan đến nội dung của nguyên tắc này, Phần 7 Mục 2 từ Điều 116 đến Điều 120 Công ước Luật Biển 1982 đã xây dựng những quy định cơ bản về việc bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật của biển cả.
Nội dung của nguyên tắc này bao hàm việc các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ các sinh vật sống trên biển. Trong trường hợp tiến hành khai thác, việc khai thác sinh vật sống này phải được tiến hành một cách khoa học, hợp lý để bảo tồn và phát triển bền vững.
1.6. Nguyên tắc bảo vệ môi trường biển.
Thế kỷ XX, cùng với quá trình phát triển kinh tế khu vực và toàn cầu, môi trường nói chung và môi trường biển nói riêng đang đối mặt với nguy cơ bị ô nhiễm nghiêm trọng từ hoạt động khai thác của con người. Nếu không có những biên pháp khắc phục kịp thời, một khi sự cân bằng sinh thái của biển bị phá vỡ, biển sẽ có những tác động xấu đến đời sống của con người.
Nhận thức được điều này, vấn đề bảo vệ môi trường biển được các quốc gia quan tâm; nhiều Công ước Quốc tế về Bảo vệ môi trường biển ra đời như: Công ước Brukxen 1969 về Các biện pháp chống ô nhiễm dầu do các vụ tai nạn trên biển cả, Công ước London 1972 về Ngăn ngừa ô nhiễm biển từ các chất thải do tàu và các chất thải khác…; đặc biệt là Công ước Luật Biển 1982. Các Công ước này đã tạo cơ sở và hành lang pháp lý cho việc gìn giữ môi trường biển, ngăn ngừa ô nhiễm trên biển.
1.7. Nguyên tắc công bằng.
Nguyên tắc công bằng là nguyên tắc được áp dụng phổ biến trong quá trình phân định biển. Trong phân định biển, áp dụng công bằng không có nghĩa là sửa chữa lại tự nhiên mà là đảm bảo cho mỗi quốc gia ven biển được hưởng một vùng biển đúng và công bằng, có tính đến các hoàn cảnh hữu quan. Công ước Luật Biển 1982 ghi nhận nguyên tắc này trên một số khía cạnh:
- Thừa nhận các quốc gia có quyền và nghĩa vụ như nhau trong khu vực Biển cả. Không đặt Biển cả dưới chủ quyền riêng biệt của bất kỳ quốc gia nào. Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia dù có biển hay không có biển. Các quốc gia khoogn có biển hoặc bất lợi về mặt địa lý cũng được sử dụng Biển cả như các quốc gia có biển.
- Thừa nhận Vùng và tài nguyên của Vùng là di sản chung của loài người, các quốc gia có biển hay không có biển trong khuôn khổ quy định của Luật pháp Quốc tế đều có quyền sử dụng Vùng vào những mục đích hòa bình. Mọi hoạt động được tiến hành trong Vùng vì lợi ích của toàn thể loài người.
2. Các vùng biển và chế độ pháp lý các vùng biển theo quy định của UNCLOS 1982.
2.1. Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia.
a. Nội thủy và Vùng nước quần đảo.
* Nội thủy: Điều 8 khoản 1 Công ước Luật Biển 1982 quy định: “Nội thủy là toàn bộ vùng nước tiếp giáp với bờ biển và nằm phía trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải”. Tại nội thủy, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối như đối với lãnh thổ đất liền của mình. Tuy nhiên, không phải vùng nước nằm bên trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải nào cũng có chế độ pháp lý như nhau. Nội thủy được phân chia thành hai dạng:
- Nội thủy thông thường: Là các vùng nước nằm bên trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải giáp với bờ biển như vịnh, của sông, vũng đậu tàu…
- Nội thủy trong đó tồn tại quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài: Là vùng nước có có đường hàng hải quốc tế đi qua mà trước đó chưa được coi là nội thủy nhưng do việc xác định đường cơ sở thẳng (4), vùng nước này trở thành nội thủy và quyền đi qua không gây hại vẫn được duy trì để đảm bảo lưu thông hàng hải quốc tế không bị trở ngại.
- Quy chế pháp lý của Nội thủy: Nội thủy là một bộ phận lãnh thổ gắn liền với phần lục địa của quốc gia ven biển, các vùng nước nội thủy được coi như lãnh thổ đất liền, tại đó quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ. Chủ quyền này bao trùm lên cả vùng trời phía trên, vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, bên dưới vùng nước nội thủy. Quy chê pháp lý nội thủy do từng quốc gia tự quy định phù hợp với những quy định chung đã được thừa nhận trong Luật Quốc tế. Quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền của mình đối với nội thủy và các hoạt động trung khu vực nội thủy.
* Vùng nước quần đảo: Khái niệm Vùng nước quần đảo là một khái niệm mới được ghi nhận trong Công ước Luật Biển 1982, khái niệm này gắn liền với lý luận quốc gia quần đảo. Theo Công ước Luật Biển 1982, quốc gia quần đảo là một quốc gia hoàn toàn được cấu thành bởi một hay nhiều quần đảo và có khi bởi một số hòn đảo khác nữa (Điều 46); quần đảo được hiểu là một tổng thể các đảo, kể cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan chặt chẽ với nhau đến mức tạo thành một thể thống nhất về địa lý, chính trị, kinh tế hay được coi như vậy về mặt lịch sử.
Điều 47 Công ước Luật Biển 1982 quy định vùng nước quần đảo là vùng biển nằm bên trong của đường cơ sở quần đảo dùng để tính chiều rộng lãnh hãi và do quốc gia đảo ấy ấn định nhưng phải đáp ứng được các điều kiện theo quy định của Công ước. Các vùng lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia quần đảo đều được tính từ đường cơ sở của quần đảo. Như vậy, muốn xác định được vùng nước quần đảo cần phải vạch được đường cơ sở quần đảo.
- Quy chế pháp lý của vùng nước quần đảo: Quốc gia quần đảo có chủ quyền trong vùng nước quần đảo; chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời phía trên, đáy và dưới đáy vùng nước quần đảo. Tuy nhiên, theo Công ước Luật Biển 1982 thì:
+ Quốc gia quần đảo có nghĩa vụ tôn trọng các điều ước hiện hành đã được ký kết với các quốc gia khác và thừa nhận các quyền đánh bắt hải sản truyền thống và những hoạt động chính đáng của các quốc gia kề cận trong một số khu vực thuộc vùng nước quần đảo… (Điều 51, khoản 1);
+ Quốc gia quần đảo tôn trọng các dây cáp ngầm hiện có do những quốc gia khác đặt và đi qua các vùng nước của quốc gia quần đảo mà không đụng đến đất liền của mình, cho phép bảo dưỡng và thay thế các đường dây cáp này sau khi họ được thông báo trước về vị trí của chúng và về những công việc bảo dưỡng hay thay thế dự định tiến hành (Điều 51, khoản 2);
+ Quốc gia quần đảo có nghĩa vụ tôn trọng quyền đi qua không gây hại của các quốc gia khác trong vùng nước quần đảo. Quốc gia quần đảo có thể tạm đình chỉ việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài trong các khu vực nhất định thuộc vùng nước quần đảo của mình, nếu biện pháp này là cần thiết để đảm bảo an ninh của nước mình, nhưng không có sự phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài. Việc đình chỉ này chỉ có hiệu lực sau khi được công bố theo đúng thủ tục (Điều 52, khoản 2);
+ Tàu thuyền quốc gia khác được hưởng quyền quá cảnh (5) theo hành lang hàng hải tại vùng nước quần đảo. Theo điều 53 Công ước Luật Biển 1982, quốc gia quần đảo phải xác định các hành lang hàng hải đảm bảo việc đi qua của tàu thuyền nước ngoài một cách liên tục và nhanh chóng, không gặp trở ngại gì trong vùng nước quần đảo của mình. Nếu quốc gia quần đảo không xác lập các hành lang hàng hải, tàu thuyền có thể đi qua vùng nước quần đảo theo các lộ trình hàng hải đã được sử dụng thường xuyên trong lưu thông hàng hải quốc tế.
b. Lãnh hải. Điều 3 Công ước Luật Biển 1982 quy định: Chiều rộng lãnh hải của các nước ven biển không quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng Công ước.
Các quốc gia ven biển có chủ quyền đối với lãnh hải của mình. Chủ quyền đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải là tuyệt đối. Chủ quyền đối với vùng trời phía trên lãnh hải cũng là tuyệt đối. Tuy nhiên, chủ quyền đối với vùng nước lãnh hải không được tuyệt đối như trong nội thủy bởi vì ở lãnh hải của quốc gia ven biển, tàu thuyền của các quốc gia khác được quyền qua lại không gây hại.
- Quy chế pháp lý của lãnh hải:Được xây dựng trên nguyên tắc chủ quyền quốc gia. Pháp luật và tập quán Quốc tế thừa nhận quốc gia ven biển có chủ quyền đầy đủ và hoàn toàn đối với lãnh hải của mình bao trùm cả với vùng trời phía trên, đáy biển và lòng đất ở phía dưới lãnh hải. Tuy nhiên, trong vùng trời bên trên lãnh hải không tồn tại quyền bay vô hại dành cho phương tiện bay hàng không. Quy chế pháp lý của lãnh hải do quốc gia tự quy định dựa trên các nguyên tắc đã được thừa nhận chung của Phát luật Quốc tế.
Quốc gia ven biển có quyền ban hành các quy định để kiểm soát và giám sát tàu thuyền nước ngoài thực hiện việc qua lại lãnh hải của mình trong một số vấn đề (an toàn hàng hải, điều phối giao thông đường biển; bảo vệ các thiết bị, công trình, hệ thống đảm bảo hàng hải; bảo vệ tuyến dây cáp và ống dẫn ở biển; bảo tồn tài nguyên sinh vật biển; ngăn ngừa vi phạm pháp luật của quốc gia ven biển liên quan đến đánh bắt hải sản; bảo vệ môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; và ngăn ngừa các vi phạm về hải quan, thuế khóa, nhập cư, y tế) và quy định hành lang để tàu thuyền đi qua.
Chế độ qua lại vô hại của tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải: Quyền đi qua không gây hại - có nghĩa là: các tàu thuyền nước ngoài được quyền đi qua lãnh hải của quốc gia ven biển mà không cần phải xin phép trước, với điều kiện không gây ra các hành động có hại, đe dọa hòa bình, an ninh trật tự của quốc gia ven biển đó- là một nguyên tắc tập quán của Luật Quốc tế, được thừa nhận bằng thực tiễn của các quốc gia, vì lợi ích phát triển, hợp tác kinh tế và hàng hải của chính các quốc gia trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện và có đi có lại. Điều 17 Công ước Luật Biển 1982 quy định tàu thuyền nước ngoài có quyền qua lại vô hại ở lãnh hải. Nhưng trên thực tế, luật lệ của quốc gia ven biển quy định tàu thuyền nước ngoài được qua lại không gây hại trong lãnh hải của mình với những điều kiện cụ thể và phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, quy định của quốc gia ven biển.
2.2. Các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia.
a. Vùng tiếp giáp lãnh hải: Điều 33, khoản 2 Công ước Luật Biển 1982 quy định: Vùng tiếp giáp lãnh hải không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
Chế độ pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải: Vùng tiếp giáp lãnh hải không phải là bộ phận lãnh thổ của quốc gia ven biển. Quốc gia ven biển chỉ có một số quyền mang tính chất chủ quyền trong vùng biển này. Quốc gia ven biển có thể thi hành sự kiểm soát cần thiết nhằm ngăn ngừa việc vi phạm các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, nhập cư hay y tế trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình; trừng trị việc vi phạm các luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình (Điều 33, khoản 2 Công ước Luật Biển 1982).
b. Vùng đặt quyền kinh tế: Điều 57 của Công ước 1982 định nghĩa: “Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần này, theo đó các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển và các quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định của Công ước điều chỉnh”. Và quy định: Chiều rộng vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven biển không mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở (vì lãnh hải 12 hải lý, nên thực chất vùng đặc quyền kinh tế có 188 hải lý) dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Trong vùng đặc quyền kinh tế quốc gia ven biển có những quyền chủ quyền về tài nguyên thiên nhiên. Vùng đặc quyền kinh tế nằm ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển nhưng cũng không thuộc về biển cả.
Quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế: Các quốc gia ven biển có các quyền về chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên sinh vật, khoáng sản và toàn bộ các hình thức hoạt động kinh tế; có quyền tài phán đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ môi trường biển, đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị công trình với mục đích kinh tế. Các quốc gia khác có quyền tự do hàng hải, hàng không, đặt dây cáp, ống dẫn và các hình thức sử dụng biển hợp pháp khác với điều kiện tuân thủ các điều khoản liên quan đến quyền của các quốc gia ven biển.
c. Thềm lục địa: Điều 76 của Công ước 1982 quy định: “Thềm lục địa của một quốc gia ven biển gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến mép ngoài của rìa lục địa; hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý khi mép ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn”. Trong đó: “Rìa lục địa là phần kéo dài ngập dưới nước của lục địa quốc gia ven biển, cấu thành dưới đáy biển tương ứng với thềm, dốc và bờ, cũng như lòng đất dưới đáy của chúng. Rìa lục địa không bao gồm các đáy của đại dương ở độ sâu lớn, với các dãy núi đại dương của chúng, cũng không bao gồm lòng đất dưới đáy của chúng” (Điều 76 khoản 3). Nếu mép ngoài của rìa lục địa vươn quá xa thì thềm lục địa của quốc gia ven biển được tính đến một giới hạn đường cơ sở không vượt quá 350 hải lý, hoặc đến một giới hạn ở ngoài đường đẳng sâu 2.500 m (6) một khoản cách không quá 100 hải lý.
* Quy chế pháp lý của thềm lục địa: Theo Công ước Luật Biển 1982, quốc gia ven biển có những quyền và nghĩa vụ sau:
Quyền của quốc gia ven biển: Có các quyền mang tính chất chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình. Quyền này là quyền riêng biệt, không ai có quyền tiến hành các hoạt động thăm dò, khai thác mà không được phép của quốc gia ven biển; Có đặc quyền cho phép và điều chỉnh việc khoan ở thềm lục địa dù với bất kỳ mục đích nào. Việc đặt các ống dẫn ngầm ở thềm lục địa phải được sự thỏa thuận của quốc gia ven biến và phù hợp với các quy định trong Công ước; Có quyền tiến hành các biện pháp thích hợp để bảo vệ môi trường biển khỏi bị ô nhiễm; Có quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác, sử dụng các đảo nhân tạo.
Nghĩa vụ của quốc gia ven biển: Không được cản trở quy chế pháp lý của vùng nước phía trên và không phận phía trên vùng nước ấy. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không đụng chạm đến chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên hay của vùng trời trên vùng nước này. Việc quốc gia ven biển thực hiện các quyền của mình đối với thềm lục địa không được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền tự do của các quốc gia khác đã được Công ước thừa nhận (ví dụ: việc đặt dây cáp và ống dẫn ngầm), cũng không được cản trở việc thực hiện các quyền này. Trường hợp quốc gia ven biển khai thác tài nguyên thiên nhiên không sinh vật của thềm lục địa nằm ngoài ranh giới của vùng đặc quyền kinh tế- ngoài 200 hải lý, quốc gia ven biển phải đóng góp khoản tiền hoặc hiện vật khai thác được ở vùng này cho Cơ quan quyền lực Quốc tế để phân chia cho các quốc gia thành viên.
2.3. Các vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia.
a. Biển cả: Theo Điều 86 Công ước Luật Biển 1982: “Biển cả là tất cả những phần biển không thuộc vùng đặc quyền kinh tế, vùng lãnh hải hoặc vùng nội thủy của một quốc gia, đồng thời cũng không thuộc vùng biển giữa các đảo của một quốc gia quần đảo”. Như vậy, với vùng đặc quyền kinh tế rộng ra 200 hải lý, biển cả bị đẩy ra khá xa.
* Quy chế pháp lý của biển cả: Nội dung cơ bản của quy chế pháp lý của Biển cả được phát triển trên cơ sở nội dung của Nguyên tắc Tự do biển cả. Điều 86 Công ước Luật Biển 1982 quy định: Biển cả để ngỏ cho tất cả các quốc gia dù có biển hay không có biển đều có quyền tự do hàng hải, hàng không, đánh cá; đặt dây cáp, ống dẫn ngầm; nghiên cứu khoa học, xây dựng các đảo nhân tạo và các công trình khác. Biển cả được sử dụng vào mục đích hòa bình; các quốc gia không được tiến hành bất kỳ một hành động quân sự nào, không được thiết lập các căn cứ quân sự ở vùng biển quốc tế- biển cả.
b. Vùng đáy đại dương- di sản chung của nhân loại: Đáy biển và lòng đất dưới đáy biển cả là tất cả những phần đất dưới lớp nước biển nằm ngoài phạm vi thềm lục địa - gọi chung là Vùng.Theo Điều 1 khoản 1 Công ước Luật Biển 1982: “Vùng được hiểu là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, nằm bên ngoài giới hạn quyền tài phán quốc gia” và Điều 136 Công ước Luật Biển 1982 cũng quy định: “Vùng và tài nguyên của nó là di sản chung của nhân loại”. Tài nguyên của Vùng bao gồm các tài nguyên khoáng sản ở thể rắn, lỏng hoặc khí, kể cả các khối đa kim nằm ở đáy đại dương và trong lòng đất dưới đáy. Công ước Luật Biển 1982 đã định ra quy chế pháp lý quốc tế về sử dụng công bằng, hợp lý và hòa bình các tài nguyên trong khu vực đáy biển và lòng đất dưới đáy biển cả nhằm phục vụ lợi ích của loài người; đồng thời định ra việc tổ chức cơ quan quyền lực quốc tế để thực hiện việc khia thác, quản lý vùng này.
* Quy chế pháp lý của Vùng: Theo quy định Công ước Luật Biển 1982, quy chế pháp lý của Vùng gồm những nội dung chính sau:
- Không có một quốc gia nào có thể đòi hỏi thực hiện chủ quyền hay các quyền thuộc chủ quyền ở một phần nào đó của Vùng hoặc đối với tài nguyên của Vùng; không một quốc gia nào hay một tự nhiên nhân hay pháp nhân có thể chiếm đoạt bất cứ một phần nào đó của Vùng hoặc tài nguyên của Vùng. Không một yêu sách, một việc thực hiện chủ quyền hay các quyền thuộc chủ quyền nào cũng như không một hành động chiếm đoạt nào được thừa nhận (Điều 137 Công ước Luật Biển 1982);
- Cộng đồng quốc tế thực hiện chủ quyền và quyền sử dụng chung đối với khu vực này thông qua một cơ quan quyền lực quốc tế chung - Cơ quan quyền lực. Mọi hoạt động trong Vùng phải được tổ chức một cách có hiệu quả dưới sự điều hành, kiểm soát của cơ quan quyền lực quốc tế;
- Vùng này phải được sử dụng nhằm mục đích hòa bình, an ninh và thúc đẩy hợp tác quốc tế;
- Mọi hoạt động thăm dó, khai thác ở vùng này phải được tiến hành vì mục đích phục vụ toàn thể loài người, vì lợi ích của tất cả các nước trên thế giới, không phụ thuộc vào vị trí địa lý của quốc gia nào, dù là quốc gia có biển hay không có biển; trong đó có lưu ý đặc biệt đến nhu cầu và quyền lợi của các nước đang phát triển và các dân tộc chưa giành được một nền độc lập đầy đủ hay một chế độ tự trị khác được Liên Hợp quốc thừa nhận theo đúng Nghị quyết 1514 (XV) và các Nghị quyết tương ứng khác của Đại hội đồng.
- Tôn trọng các quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia ven biển;
- Tất cả các hiện vật khảo cổ hay lịch sử tìm thấy trong Vùng đều được bảo tồn hay nhượng lại vì lợi ích chung của loài người.
- Mọi hoạt động trong Vùng phải tuân theo pháp luật và tập quán quốc tế.
2.4. Các vùng biển đặt thù.
Các biển và đại dương được nối liền với nhau bằng các đường hàng hải quốc tế qua một số eo biển và kênh đào có vị trí đặc biệt. Các eo biển và kênh đào là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia nhưng có vị trí và tính chất đặc biệt về giao thông hàng hải quốc tế. Vì vậy, vị trí và tính chất pháp lý của các eo biển và kênh đào quốc tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong Luật Biển Quốc tế. Trong thực tiễn pháp luật quốc tế đã hình thành quy chế pháp lý về các eo biển, kênh đào quốc tế điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể luật quốc tế trong việc khai thác, sử dụng các bộ phận này vì lợi ích chung.
a. Eo biển quốc tế: Là tuyến đường biển tự nhiên nối các biển, các đại dương với nhau và được sử dụng cho giao thông hàng hải quốc tế. Eo biển có thể nối liền các vùng biển có chế độ pháp lý khác nhau như biển cả, vùng đặc quyền kinh tế hay lãnh hải với biển cả hoặc vùng đặc quyền kinh tế khác. Theo Điều 37 Công ước Luật Biển 1982: “Eo biển dùng cho hàng hải quốc tế được hiểu là eo biển nằm giữa một bộ phận của Biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế và một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng kinh tế”.
* Quy chế pháp lý của Eo biển quốc tế: Tại các eo biển quốc tế này, áp dụng nguyên tắc quyền quá cảnh. Tàu thuyền và phương tiện bay của các quốc gia được hưởng quyền tự do hàng hải và tự do hàng không với điều kiện đi qua phải liên tục, nhanh chóng qua eo biển.
Quyền quá cảnh này được áp dụng cho cả tàu thuyền và phương tiện bay. Tàu thuyền được hưởng quyền tự do hàng hải và phải tôn trọng các tuyến đường hàng hải và hệ thống phân chia luồng giao thông do các quốc gia ven eo biển xác lập phù hợp với các quy định quốc tế đã được công nhận chung. Các phương tiện bay thực hiện quyền tự do bay theo quy định của pháp luật quốc tế.
b. Kênh đào quốc tế: Là tuyến đường hàng hải nhân tạo nối liền các biển với nhau để dùng trong giao thông hàng hải quốc tế. Kênh đào quốc tế thuộc chủ quyền của nước có kênh đào chảy qua. Các kênh đào quốc tế được dành cho tàu thuyền của tất cả các quốc gia qua lại, nếu điều ước quốc tế hay luật quốc gia của nước hưu quan quy định như vậy. Chế độ giao thông hàng hải quốc tế ở các kênh đào quốc tế được điều chỉnh bằng các Hiệp định quốc tế (ví dụ: kênh đào Xuyê, kênh đào Panama) hoặc chỉ bằng pháp luật trong nước của quốc gia có chủ quyền (ví dụ: kênh đào Kiel).
* Quy chế pháp lý của kênh đào quốc tế: Gần giống với quy chế pháp lý của eo biển quốc tế; các kênh đào quốc tế cũng là những con đường hàng hải quốc tế ngắn và tiện lợi, nối liền các biển và đại dương trong giao thông đường biển. Trong số các kênh đào quốc tế, kênh đào Xuyê (nằm trên lãnh thổ Ai Cập, thuộc chủ quyền của Ai Cập, nối liền Hồng Hải với Địa Trung Hải) và kênh đào Panama (nằm trên lãnh thổ Panama, nối Thái Bình Dương và Đại Tây Dương) là hai kênh đào có vị trí đặc biệt quan trọng.
3. Vấn đề giải quyết tranh chấp biển theo quy định của UNCLOS 1982 (7).
Công ước Luật Biển 1982 vừa là cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng hỗ trợ các quốc gia trong việc quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở biển, vừa là công cụ hữu hiệu để các quốc gia giải quyết các tranh chấp phát sinh từ biển.
Vấn đề giải quyết tranh chấp về biển được quy định tại phần XV, từ Điều 279 đến Điều 299 của Công ước Luật Biển 1982 và các bản phụ lục có liên quan, bao gồm các vấn đề cơ bản như: nguyên tắc giải quyết tranh chấp; trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp; cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp; trình tự, thủ tục hòa giải (Phụ lục V); tổ chức, thẩm quyền và thủ tục tố tụng của Tòa án Quốc tế về Luật Biển (Phụ lục VI); thẩm quyền, thủ tục và giải quyết tranh chấp bằng trọng tài (Phụ lục VII); về việc giải quyết tranh chấp bằng tòa án trọng tài đặc biệt (Phụ lục VIII)…
Việc đưa vào UNCLOS 1982 các điều khoản bắt buộc về giải quyết các tranh chấp ở biển được coi là một bước tiến lớn của luật pháp quốc tế nói chung và của Công ước Luật Biển 1982 nói riêng. Điều này đã phản ánh đúng xu thế của thời đại, thể hiện ý nguyện của các quốc gia có biển cũng như không có biển…, vì nếu không có các điều khoản về giải quyết tranh chấp thì sự toàn vẹn của văn bản cuối cùng sẽ bị mất giá trị (8).
Nguyên tắc nền tảng, được dùng làm cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp theo Công ước Luật Biển 1982 là: Các quốc gia thành viên giải quyết mọi tranh chấp trong việc giải thích hay áp dụng Công ước bằng các phương pháp hòa bình theo đúng Điều 2, khoản 3 của Hiến chương Liên Hợp quốc “và, vì mục đích này, cần phải tìm ra giải pháp bằng các phương pháp đã được nêu ở Điều 33, khoản 1 của Hiến chương” (Điều 279). Như vậy, các bên có thể tán thành bất cứ một cách thức giải quyết tranh chấp nào mà họ lựa chọn. Không một quy định nào của Công ước ảnh hưởng đến quyền của các quốc gia áp dụng bất cứ lúc nào, bằng bất kỳ phương pháp hòa bình nào theo sự lựa chọn của mình một vụ tranh chấp xảy ra giữa họ (Điều 280). Và: “Khi có một tranh chấp xảy ra giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, các bên tranh chấp tiến hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm về cách giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hay các phương pháp hòa bình khác…” (Điều 283).
Các quy định về giải quyết tranh chấp của Công ước Luật Biển 1982 đòi hỏi tất cả các quốc gia thừa nhận hoặc phê chuẩn Công ước phải thực hiện, không được bảo lưu một ý kiến nào. Tuy nhiên, các quốc gia có thể lựa chọn cách thức riêng cho mình đối với việc giải quyết tranh chấp, hoặc có thể chấp nhận quyết định bắt buộc của một tòa án nào đó (Tòa án Quốc tế về Luật Biển, Tòa án quốc tế, một tòa trọng tài thông thường hoặc tòa án trọng tài đặc biệt…) và có quyền lựa chọn nhất định về tính chất và thành phần của tòa án.
Các điều khoản của Công ước chỉ có thể được áp dụng cho những cuộc tranh chấp có liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước, không áp dụng cho những cuộc tranh chấp nảy sinh từ những tình huống rộng hơn nhưng có ảnh hưởng đến những vấn đề về biển.
Hệ thống các điều khoản giải quyết tranh chấp ở Phần XV Công ước Luật Biển 1982 là nhằm dự liệu một loạt các cách thức giải quyết và từ đó tạo thuận lợi cho các nổ lực giải quyết của các bên bằng cách này hay cách khác. Các bên tranh chấp có thể thỏa thuận từng bước các cách thức khác nhau, theo một trật tự từ đàm phán, hòa giải, trọng tài cho đến tòa án. Đồng thời, tất cả các cách thức giải quyết tranh chấp quốc tế đều theo nguyên tắc thỏa thuận, theo những cách thức mà các bên đã cam kết từ trước hoặc lựa chọn vào bát kỳ thời điểm nào. Thay vì một trật tự từ thấp tới cao, Phần XV của Công ước đã đưa ra một loạt các cách thức giải quyết tranh chấp để từ đó các bên có thể lựa chọn một cách thức thích hợp cho từng hoàn cảnh và đặc thù của vụ việc tranh chấp.
Yếu tố quan trọng nhất về giải quyết tranh chấp trong Công ước là các điều khoản quy định các thủ tục bắt buộc dẫn tới các quyết định bắt buộc. Các quốc gia có thể chọn một hoặc nhiều các biện pháp về thủ tục giải quyết bắt buộc như: Tòa án Quốc tế về Luật Biển, Tòa án trọng tài đặc biệt dành cho các tranh chấp về lĩnh vực nghề cá, bảo vệ và bảo tồn môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển hoặc về hàng hải.v.v..
4. Vấn đề khai thác và bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học, phát triển và chuyển giao kỹ thuật quy định trong UNCLOS 1982.
4.1. Vấn đề khai thác, bảo vệ và giữ gìn môi trường biển.
Vấn đề ô nhiễm môi trường biển hiện đang là một trong những mối quan tâm hàng đầu của toàn thể cộng đồng thế giới. Chiếm diện tích khoảng 3/4 bề mặt trái đất, biển và đại dương có tầm quan trọng to lớn đối với sự tồn vong của loài người. Ô nhiễm môi trường biển không chỉ gắn kết với các hoạt động biến đổi của tự nhiên mà còn gắn liền đi đôi với các hoạt động của con người- có thể trực tiếp làm ô nhiễm môi trường biển hoặc cũng có thể gián tiếp gây ra các hiện tượng tự nhiên làm ô nhiễm môi trường biển.
Vì lý do trên, khai thác tài nguyên luôn luôn phải đi đôi với vấn đề bảo vệ môi trường, nếu khai thác mà không chú trọng đến môi trường thì tài nguyên nhanh cạn kiệt và kéo theo hàng loạt các vấn đề về môi trường như suy thoái, ô nhiễm…, không đảm bảo phát triển bền vững. Chính vì vậy, ngoài những vấn đề quan trọng nêu trên, Công ước Luật Biển 1982 cũng đặc biệt chú trọng đến việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và giữ gìn môi trường biển.
* Vấn đề khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Điều 193 Công ước Luật Biển 1982 quy định: “Các quốc gia có quyền thuộc chủ quyền khai thác các tài nguyên thiên nhiên của mình theo chính sách về môi trường và theo đúng nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển của mình”. Và Điều 140 của Công ước quy định về Công bằng trong quản lý khai thác và phân chia tài nguyên Vùng: “Các hoạt động trong Vùng được tiến hành là vì lợi ích của toàn thể loài người, không phụ thuộc vào vị trí địa lý của các quốc gia dù là quốc gia có biển hay không có biển và có lưu ý đặc biệt đến các lợi ích và nhu cầu của các nước đang phát triển và các dân tộc chưa giành được một nền độc lập đầy đủ hay một chế độ tự trị khác được Liên Hợp quốc thừa nhận theo đúng Nghị quyết 1514 (XV) và các Nghị quyết tương ứng khác của Đại hội đồng”.
Việc thăm dò, khai thác tài nguyên của Vùng được tiến hành thông qua một tổ chức quốc tế, gọi là: Cơ quan quyền lực Quốc tế; cơ quan này bảo đảm việc phân chia công bằng, trên cơ sở không phân biệt đối xử, những lợi ích tài chính và các các lợi ích khác do những hoạt động tiến hành trong Vùng thông qua bộ máy của mình.
Các Cơ quan quyền lực Quốc tế có quyền định ra các quy tắc, quy định và thủ tục thích hợp cho việc sử dụng Vùng vào mục đích hòa bình, ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển; bảo vệ sự sống của con người, bảo vệ và bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên của Vùng, phòng ngừa những thiệt hại đối với hệ động vật và hệ thực vật.
* Vấn đề bảo vệ và giữ gìn môi trường biển.
Điều 1, khoản 4 Công ước Luật Biển 1982 đã đưa ra khái niệm khá toàn diện về ô nhiễm môi trường biển: “Ô nhiễm môi trường biển là việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao gồm cả các cửa sông, khi việc đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây nguy hiểm cho sức khỏe của con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt hải sản và việc sử dụng biển một cách hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng nước biển về phương tiện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển”.
Điều 192 Công ước Luật Biển 1982 đã khẳng định: “Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển”. Đây là nghĩa vụ xuất phát từ quyền lợi của Quốc gia ven biển (QGVB) cũng như cộng đồng quốc tế trong các vùng biển của QGVB. Nghĩa vụ này không đi ngược lại với lợi ích chính đáng của các QGVB mà luôn gắn liền với quyền chủ quyền của các QGVB trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình nhưng họ vẫn phải thi hành các chính sách về môi trường để bảo vệ môi trường biển. Điều 235, khoản 1 Công ước Luật Biển 1982 ghi: “Các quốc gia có trách nhiệm quan tâm đến việc hoàn thành các nhiệm vụ quốc tế của mình về vấn đề bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, các quốc gia có trách nhiệm thực thi theo đúng pháp luật quốc tế”.
Công ước Luật Biển 1982 không chỉ quy định nghĩa vụ của các nước trong việc bảo vệ môi trường biển trong phần quy định về các vùng biển như bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật của biển cả hay bảo vệ môi trường và sự sống của con người ở Vùng, mà còn dành một phần riêng với 46 điều đề cập tới vấn đề bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.
4.2. Nghiên cứu khoa học biển, phát triển và chuyển giao kỹ thuật biển.
Công ước Luật Biển 1982 đã quy định những vấn đề cơ bản như quyền tiến hành nghiên cứu khoa học biển; nghĩa vụ của các QGVB trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia khác tiến hành nghiên cứu khoa học biển; các thiết bị, phương tiện phục vụ công tác nghiên cứu khoa học biển; giải quyết tranh chấp về nghiên cứu khoa học biển… Nội dung cụ thể của Công ước về nghiên cứu khoa học biển được Công ước quy định tại phần XIII, từ Điều 238 đến Điều 265.
III. MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ UNCLOS 1982.
Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 kể từ ngày có hiệu lực (16/11/1994) đã góp phần vào việc điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia trên biển, tạo cơ sở pháp lý chung để các quốc gia giải quyết tranh chấp. Công ước này đang có hiệu lực pháp lý ràng buộc các quốc gia thành viên ở một mức độ nhất định và còn trở thành một luật tập quán đối với các quốc gia không phải là thành viên của Công ước.
Hiện nay các điều khoản của Công ước về chế độ pháp lý các vùng biển, các tiêu chuẩn để xác định ranh giới các vùng biển là tương đối rõ ràng nhưng trên thực tiễn quốc tế thì các điều khoản này đang được vận dụng và giải thích theo cách riêng của mỗi quốc gia. Vì vậy, trong tương lai đặt ra vấn đề phải thống nhất được cách hiểu và ứng dụng các điều khoản của Công ước để giảm thiểu các tranh chấp trên biển (9).
*
Như vậy, theo Công ước Luật Biển 1982, phạm vi vùng biển của nước Việt Nam được mở rộng ra một cách đáng kể, từ vài chục nghìn ki-lô-mét vuông lên đến gần một triệu ki-lô-mét vuông với năm vùng biển (nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa) có phạm vi và chế độ pháp lý khác nhau. Nước Việt Nam không còn thuần tuý có hình dạng hình chữ ''S'' nữa mà mở rộng ra hướng biển, không chỉ có biên giới biển chung với Trung Quốc, Campuchia mà cả với hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á như Philíppin, Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan.
-----------
(1) Tiến sĩ Lê Mai Anh (chủ biên)- Luật biển quốc tế hiện đại, NXB Lao động xã hội, Hà Nội 2005.
(2) Tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao- Những điều cần biết về Luật biển, NXB Công an Nhân dân, 1997.
(3) Tiến sĩ Lê Mai Anh (chủ biên)- Luật biển quốc tế hiện đại, NXB Lao động xã hội, Hà Nội 2005.
(4) Đường cơ sở thẳng: là đường cơ sở nối liền các điểm thích hợp và được áp dụng “ở những nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển”, hoặc “ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và do những điều kiện tự nhiên khác” - Điều 7 Công ước Luật Biển 1982”
(5) Quyền quá cảnh có nội dung rộng hơn so với quyền đi qua không gây hại, quyền quá cảnh không thể bị đình chỉ, tàu ngầm quân sự có thể đi qua ở tư thế chìm và phương tiện bay quân sự, dân sự đều có quyền bay qua vùng trời bên trên vùng nước quần đảo.
(6) Đường đẳng sâu 2.500 mét là đường nối liền các điểm có chiều sâu 2.500 mét.
(7) PGS.TS. Nguyễn Bá Diến, “Cơ chế giải quyết tranh chấp trên biển theo Công ước Luật Biển 1982”, Trang Thông tin điện tử Nguyên cứu Biển Đông ngày 25/02/2010, http://nghiencuubiendong.vn.
(8) Viện Thông tin khoa học xã hội, Vị trí chiến lược vấn đề biển và Luật Biển ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Hà Nội 1998, tr. 227.
(9) Bài viết này dựa trên cơ sở Tài liệu tham khảo Phục vụ công tác tập huấn tuyên truyền về biển đảo, NXB Thông tin và tuyên truyền, Hà Nội, tháng 11-2012 và một số tài liệu khác trên các thông tin chính thống.

Tác giả: Phan Thanh Hậu - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam

[Trở về]

» Đảng Cộng sản Việt Nam
     Khóa IX
     Khóa X
      Khóa XI
     Khóa XII
     Khóa XVIII
     Khóa XIX
     Khóa XX

     Khóa XXI
     Khóa XXII
Xem tất cả

Liên kết website

Thăm dò ý kiến

Bạn đánh giá như thế nào về cổng thông tin này?