Chào mừng bạn đến với Trang thông tin điện tử Đảng Bộ tỉnh Quảng Nam !

Chi tiết tin

Kỷ niệm 550 năm Danh xưng Quảng Nam (1471 - 2021): SỰ HỌC CỦA NGƯỜI QUẢNG NAM XƯA

Ngày đăng: 14:26 | 21/06/2021 Lượt xem: 27517

Vùng đất Quảng Nam có truyền thống hiếu học đáng quý thể hiện trong việc học, trong nghề thầy và trong thái độ của gia đình và xã hội chăm lo cho giáo dục. Học trò xứ Quảng từ lâu có tiếng chăm học và học giỏi; khi đỗ đạt họ đã đem sở học, tài năng, tâm huyết, cả tính mệnh của mình để phục vụ cho dân, cho nước.

1. Danh xưng Quảng Nam ra đời năm 1471, thời vua Lê Thánh Tông. Do bối cảnh, tình hình cụ thể của Quảng Nam trong lịch sử đất nước, việc đi vào quỹ đạo của nền giáo dục diễn ra muộn hơn so với các nơi khác, dấu hiệu đầu tiên chứng tỏ sự hình thành giáo dục ở đất Quảng là vào năm 1488, vua Lê Thánh Tông sai Tham chính Quảng Nam là Phạm Bá Tông, người lo việc học hành và thi cử của sĩ tử Quảng Nam: “Quân dân thuộc Quảng Nam sinh con trai từ 15 tuổi trở lên mà tuấn tú ham học thì đến ngày thi Hương cần lựa chọn, lập danh sách cho làm sinh đồ để được dạy bảo cho biết lễ nghĩa”(1).
 
Tuy nhiên, trong thời gian gần 150 năm (từ 1488 đến 1632), do phải tập trung sức lực cho khai phá đất đai để mưu sinh và chiến tranh, nên sự nghiệp giáo dục phát triển chậm, có thể nói cách khác, văn hóa bác học không thấy phát triển, thậm chí hầu như không có. Mãi đến năm 1632, thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho mở khoa thi Nhiêu học và Hoa văn đầu tiên cho 2 xứ Thuận Quảng, giáo dục ở Quảng Nam mới đi vào nền nếp. Từ đây, với chính sách thân dân và mở cửa các chúa Nguyễn, nền kinh tế xứ Quảng đã gặt hái được những thành quả tốt đẹp, thì là lúc đã bắt đầu có thời gian đủ để tích lũy, hình thành, xuất hiện một đội ngũ trí thức trên mảnh đất này. Tình hình và kết quả việc học hành, thi cử của Quảng Nam thời các chúa Nguyễn có thể nhận biết phần nào qua một số tên tuổi mà sử sách còn nhắc đến. Sách “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn phần nói về Quảng Nam cho biết dưới thời các chúa Nguyễn nhiều thí sinh của Quảng Nam đã đỗ đạt tại các kỳ thi do các chúa Nguyễn tổ chức để chọn người làm việc trong bộ máy chính quyền, như Lê Cảnh, Nguyễn Quang Lộc, Phạm Hữu Kính, Phan Phước Ân, Trương Công Hy, Trần Phước Thành…; trong đó, Phạm Hữu Kính, dưới thời Nguyễn Phúc Chu, làm quan đến chức Cai bộ Quảng Nam; Trương Công Hy được chúa Nguyễn đã chọn vào dạy học cho các hoàng tử, hoàng tôn (trong đó có hoàng tử Nguyễn Phúc Dương)(2)
2. Từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, với vùng đất tả trực kỳ của triều đình, có vai trò lớn cung cấp sản vật, đóng góp nguồn tài lực, bảo đảm quân lính tướng sĩ và là cửa ngõ giao thương với bên ngoài, Quảng Nam trở thành vùng đất sản sinh ra một đội ngũ trí thức dân tộc, đã thật sự có một sự đột phá về giáo dục đào tạo, làm nở rộ một thế hệ nhân tài.
Trong 42 khoa thi Hương được tổ chức dưới triều Nguyễn, Trường thi Thừa Thiên đã lấy 1.248 đỗ cử nhân, Quảng Nam có 254 người, trong đó có 6 người đỗ đầu khoa (thủ khoa) thi Hương - hương nguyên, tạo nên danh hiện “Lục tuyệt Quảng Nam”, đó là các ông: Phạm Phú Thứ, người Điện Bàn, khoa thi năm 1842; Lê Vĩnh Khanh, người Tiên Phước, khoa thi năm 1843, đỗ phó bảng năm 1844; Nguyễn Hanh, người Hòa Vang, khoa thi năm 1852; Phạm Liệu, người Điện Bàn, khoa thi năm 1894, đỗ tiến sĩ 1898; Huỳnh Thúc Kháng, người Tiên Phước, khoa thi năm 1900, đỗ tiến sĩ 1904; Võ Hoành, người Duy Xuyên, khoa thi năm 1903, đỗ phó bảng 1910(3).
Trong 39 khoa thi Hội và thi Đình thì Quảng Nam có 39 người đỗ đại khoa trong 22 khoa, bao gồm 15 tiến sĩ (có 1 hoàng giáp) và 24 phó bảng. Đầu tiên là trong khoa Mậu tuất, 1838; trong khoa thi này, cả nước có 10 người đỗ đại khoa, trong đó Quảng Nam có 3 người gồm: Tiến sĩ Lê Thiện Trị, người Duy Xuyên; Phó bảng Nguyễn Tường Vĩnh, người Hội An; Phó bảng Nguyễn Dục, người Phú Ninh. Và 3 người đỗ cao nhất về khoa bảng ở Quảng Nam thời kỳ này là: Phạm Như Xương, người Điện Bàn, đỗ Đình nguyên Hoàng giáp khoa Ất hợi 1875 ( Đỗ Tiến sĩ trong khoa thi Ất hợi 1875 ở Quảng Nam còn có Tiến sĩ Trần Văn Dư- Người làng An Mỹ Tây, nay là xã Tam An, huyện Phú Ninh) ; Phạm Phú Thứ, người Điện Bàn, đỗ Thủ khoa cả khoa thi Hương năm 1842 và thi Hội 1843; Huỳnh Thúc Kháng, người Tiên Phước, cũng đỗ Thủ khoa cả khoa thi Hương năm 1900 và thi Hội 1904. Ngoài ra, Quảng Nam còn có 2 vị Tiến sĩ võ, đó là Võ Văn Đức đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ võ xuất thân năm 1865; Phạm Học đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ võ xuất thân năm 1868)(4).
Qua học hành, thi cử dưới triều Nguyễn, Quảng Nam nổi tiếng là đất học với các danh hiệu để tiếng thơm muôn đời sau: (1) “Ngũ phụng tề phi” - Năm con chim phụng cùng bay: người Quảng Nam gọi khoa thi Mậu Tuất 1898 là “Khoa Ngũ phụng tề phi” hay “Ngũ phụng Quảng Nam”, kỳ thi năm đó cả nước có 17 người cùng đỗ đại khoa 8 tiến sĩ, 9 phó bảng; trong đó, riêng Quảng Nam có 5 người: 3 tiến sĩ là Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn; 2 phó bảng là Ngô Chuân, Dương Hiển Tiến. Nói về “Ngũ phụng tề phi”, có người người nhận xét: “Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn, có tất cả 187 khoa thi tiến sĩ với 9.271 người đậu Tiến sĩ, nhưng chưa hề thấy khoa nào có 5 người trong một tỉnh cùng thi đậu một lượt như trường hợp 5 vị vừa được nêu trên thuộc tỉnh Quảng Nam”(5). (2) “Tứ hỗ”: khoa thi năm Tân sửu 1901, Quảng Nam lại có 4 người đỗ phó bảng được gọi là “tứ hổ”, đó là Nguyễn Đình Hiến, Võ Vĩ, Nguyễn Mậu Hoán, Phan Châu Trinh. (3) “Tứ kiệt”: để chỉ 4 người nổi tiếng về văn chương khoa cử, đó là: Trần Quý Cáp về thơ; Nguyễn Đình Hiến về phú; Phan Châu Trinh về kinh nghĩa; Huỳnh Thúc Kháng về cả 3 loại văn đó. (4) “Ngũ tử đăng khoa”: vua Tự Đức ban tặng danh này cho 5 anh em, gồm 3 tú tài Nguyễn Khắc Thân, Nguyễn Chánh Tâm, Nguyễn Tu Kỷ và 2 cử nhân Nguyễn Thành Ý, Nguyễn Tĩnh Cung. Họ là con ông Nguyễn Tấn Duệ và bà Trương Thị Tam, người làng Túy La, trú làng Bất Nhị, nay là Điện Phước, thị xã Điện Bàn. (5) “Xuân Sơn ngũ tử”: là danh hiệu 5 anh em ruột quê ở làng Xuân Đài, huyện Diên Phước, nay là xã Điện Quang, thị xã Điện Bàn, gồm: 2 cử nhân Hoàng Kim Bảng, Hoàng Kim Giám, Phó bảng Hoàng Kim Tích (Hoàng Diệu) và 2 tú tài Hoàng Kim Bình, Hoàng Kim Đạt. (6) “Lục phụng bất tề phi” - sáu con chim phụng không cùng bay - là danh xưng mà nhà Quảng Nam học Nguyễn Văn Xuân gọi sáu người Quảng hiếu học, học giỏi và đỗ đạt cao; tuy không cùng đỗ một khoa nhưng người nào cũng có nhiều đóng góp cho sự nghiệp của dân tộc, đó là: Hoàng giáp Phạm Như Xương, Tiến sĩ Phạm Phú Thứ, Tiến sĩ Trần Quí Cáp, Tiến sĩ Huỳnh Thúc Kháng, Phó bảng Phan Châu Trinh, Phó bảng Nguyễn Duy Hiệu(6).
Đây hẳn là thành quả của một hệ thống trường học rộng khắp và có chất lượng, với những ông thầy có trình độ và tâm huyết, như Nguyễn Doãn Thành có số môn sinh lên đến hàng ngàn, nhiều người thành đạt; như Tiến sĩ Mã Sơn Trần Đình Phong người Nghệ An, là danh sư đào tạo nhiều bậc đại khoa, những sĩ phu kiệt liệt như Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng... Xứ Quảng cũng là nơi cung cấp cho triều đình nhiều ông thầy (Trần Văn Dư, Nguyễn Duy Hiệu, Nguyễn Đình Tựu…) được giao trọng trách dạy những người sẽ làm vua. Đây chính là thể hiện sự tin cậy và đánh giá cao học vấn, nhân cách của sĩ phu xứ Quảng. Điều đáng lưu ý là nhiều bậc đại khoa nổi tiếng là con dân những vùng sơn cước xa xôi, hẻo lánh, như Huỳnh Thúc Kháng ở Thạnh Bình, Tiên Phước; Phan Châu Trinh ở Tam Lộc, Phú Ninh; Nguyễn Đình Hiến ở Trung Lộc, Quế Sơn… Tuy nhiên vùng có nhiều người học rộng đỗ cao hơn cả là vùng đồng bằng ven sông Thu Bồn(7); trong đó đặc biệt là huyện Diên Phước (Điện Bàn ngày nay).
Đất Quảng vốn là đất hiếu học, trọng học từ lâu, học trò Quảng thường rất chăm học, cần cù, chịu khó, có tinh thần tự học rất cao; điển hình như: (1) Tiến sĩ Phạm Phú Thứ là một nhà nho, một vị đại thần mà lại rất nhạy cảm với những thành tựu của công nghệ, kỹ thuật phương Tây, chăm chú ghi chép những điều tai nghe, mắt thấy mà ông cho là hay khi đi sứ ra nước ngoài, rồi mang về nước phổ biến, và ông là một trong những người đã nhận thức được sớm nhất nhu cầu phải canh tân đất nước ngay từ giữa thế kỷ XIX bằng truyền bá kiến thức khoa học; (2) Trần Cao Vân học giỏi nhưng không đi thi, chỉ ở nhà dạy học, mưu tính chuyện cứu nước; ông đã đề ra thuyết “Trung thiên dịch” mong muốn bổ sung cho dịch lý Trung Hoa, tiếc rằng do nhiều lần tù tội, tập “Trung thiên dịch” do ông biên sạo bị thất lạc. (3) Cuộc đời và số phận của những nhà yêu nước Quảng Nam, như Trần Văn Dư, Phạm Tuấn, Nguyễn Duy Hiệu, Hoàng Diệu, Trần Quý Cáp, Phan Bá Phiến, Nguyễn Thành Ý, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Thành… chứng tỏ một cách hùng hồn họ đã học tập và tu dưỡng như thế nào và đã biết đem sở học, tài năng, tâm huyết, cả tính mệnh của mình để phục vụ cho dân, cho nước như thế nào.
Quảng Nam cũng là vùng đất đã sản sinh ra nhiều thầy giáo nổi tiếng không chỉ ở phạm vi địa phương mà trong cả nước, được nhân dân và học trò nhiều thế hệ trọng vọng. Danh hiệu “ông đồ Quảng” được truyền tụng rộng rãi ở miền Nam từ lâu, chứng tỏ ở đây nghề dạy học là một nghề được ưa chuộng và tôn kính. Một điều đáng chú ý là trong số 39 vị đại khoa Quảng Nam có nhiều người từng giữ các trọng trách, từ đốc học ở tỉnh, đến giảng quan các trường, viện trực thuộc triều đình ở kinh đô Huế, chức tư nghiệp và tế tửu (như giám đốc và phó giám đốc bây giờ) Quốc Tử Giám là Trường Đại học quốc gia chung cho cả nước thời đó. Nhiều vị được chọn giảng sách cho vua nghe, hoặc trực tiếp dạy các hoàng tử, các nhà vua tương lai. Có thể nêu tên một số vị sau: (1) Tiến sĩ Lê Thiện Trị, quê ở làng Long Phước, nay thuộc thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên; người đỗ tiến sĩ đầu tiên ở Quảng Nam, năm 1838 và cũng là ở các tỉnh phía Nam, từng làm Chủ khảo trường thi Gia Định, Nghệ An và giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám. (2) Phó bảng Nguyễn Tường Vĩnh, quê ở làng Cẩm Phô, nay thuộc thành phố Hội An, đỗ phó bảng cùng khoa với Tiến sĩ Lê Thiện Trị năm 1838, từng làm Chủ khảo trường thi Hà Nội, giảng quan dạy con trai trưởng vua Thiệu Trị. (3) Phó bảng Nguyễn Dục, người làng Chiên Đàn, nay thuộc huyện Phú Ninh, đỗ phó bảng cùng khoa với Tiến sĩ Lê Thiện Trị năm 1838, từng giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám, sung chức Giáo đạo ở Dục Đức đường, giảng dạy các hoàng tử vua Thiệu Trị. (4) Tiến sĩ Trần Văn Dư, con rễ phó bảng Nguyễn Dục, người làng Chiên Đàn, nay thuộc huyện Phú Ninh, từng được thăng Hàn lâm Viện Thị độc, sung chức Giảng tập ở Dục Đức đường, dạy các hoàng tử. Về sau, ông là Hội chủ Nghĩa hội Quảng Nam, bị giặc Pháp sát hại năm 1885 tại tỉnh thành La Qua, nay thuộc thị xã Điện Bàn. (5) Phó bảng Nguyễn Đình Tựu, cậu ruột của Tiến sĩ Huỳnh Thúc Kháng, người xã Tiên Châu, huyện Tiên Phước, đỗ phó bảng năm 1868, từng làm Chủ khảo trường thi Bình Định, là một vị đốc học làm việc lâu năm, giảng dạy ở Dục Đức đường và Chính Mông đường, giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám. (6) Phó bảng Nguyễn Thuật, người làng Hà Lam, nay thuộc thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình, đỗ phó bảng năm 1868, được bổ Thị lang Nội các, Thăng Giáo đạo (trường Dưỡng Thiên) dạy các hoàng tử, được phong Thái tử Thiếu bảo, Hiệp biện Đại học sĩ, Thượng thư bộ Hộ, bộ Lại, bộ Binh; là một đại thần trải qua 8 triều vua nhà Nguyễn từ Tự Đức đến Duy Tân; từng làm Chánh sứ sang Trung Hoa, có nhiều sáng tác văn thơ để lại. (7) Phó bảng Nguyễn Duy Hiệu, người làng Thanh Hà, nay thuộc thành phố Hội An, đỗ phó bảng năm 1879, được bổ làm giảng quan ở Dưỡng Thiệu đường, thầy dạy hoàng tử Ưng Đăng, sau này là vua Kiến Phúc. Khi Tiến sĩ Trần Văn Dư bị sát hại, ông lên làm Chủ hội Nghĩa hội Quảng Nam, xây dựng căn cứ Tân Tỉnh ở Trung Lộc, huyện Quế Sơn. Về sau, ông bị giặc bắt và hành quyết ở pháp trường An Hòa tại Huế, ngày 1-10-1887... Việc hàng loạt nhà khoa bảng Quảng Nam được cử các trọng trách không chỉ nói rõ sức học và đức độ của họ, mà còn phản ánh truyền thống tôn sư, trọng đạo.
3. Mỗi vùng đất có những sức sống riêng, đặc trưng riêng, mang trong mình giá trị lịch sử riêng, với một tỉnh “sinh sau đẻ muộn”, không thể sánh việc học của mình với các vùng đất học Thăng Long - Hà Nội, xứ Nghệ, xứ Thanh, xứ Huế... Song, với một tính cách mở, một tư tưởng ưa khám phá, khai thác, thích hướng ngoại là nhân tố quan trọng giúp con người xứ Quảng tiếp thu nhanh những thành tựu khoa học kỹ thuật để thích nghi trong điều kiện mới; tiềm ẩn bên trong những con người năng động luôn phù hợp với xu thế xã hội ấy là một bản lĩnh vững vàng, kiên định, một nghị lực bền bỉ, một ý chí mạnh mẽ với tinh thần luôn xả thân vì dân, vì nước.
Những điều trình bày trên đây chưa thể nói hết về sự học của người Quảng Nam xưa, nhưng mỗi người dân Quảng Nam có quyền tự hào về cái sự học của quê hương mình và hy vọng rằng qua đó có thể góp một phần tìm hiểu về truyền thống hiếu học của vùng đất này, đồng thời có cách nhìn nhận, đánh giá đúng tiềm năng và thế mạnh của vùng đất Quảng Nam trong chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước hiện nay.
----------
(1) Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, trang 507;
(2) “Địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng”, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam; thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng; Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội - 2010; trang 1135-1174;
(3) Lược trích theo “Địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng”, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam; thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng; Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội - 2010; trang 1139-1140.
(4) http://www.hannom.org.vn/default.asp?CatID=562
(5) “Địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng”, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam; thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng; Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội - 2010; trang 1170-1171.
(6) https://baodanang.vn/bao-da-nang-xuan-2020/202001/pham-chat-hieu-hoc-cua-nguoi-quang-xua-3270470/index.htm
(7) “Tìm hiểu con người Xứ Quảng”, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam-2004, Nguyên Ngọc chủ biên; tr 192-193

Tác giả: Phan Thanh Hậu, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

[Trở về]

» Đảng Cộng sản Việt Nam
     Khóa IX
     Khóa X
      Khóa XI
     Khóa XII
     Khóa XVIII
     Khóa XIX
     Khóa XX

     Khóa XXI
     Khóa XXII
Xem tất cả

Liên kết website

Thăm dò ý kiến

Bạn đánh giá như thế nào về cổng thông tin này?