Chào mừng bạn đến với Trang thông tin điện tử Đảng Bộ tỉnh Quảng Nam !

Chi tiết tin

KỶ NIỆM 60 NĂM ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN – ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH (19/5/1959-19/5/2019): QUẢNG NAM VỚI TUYẾN ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN – ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH

Ngày đăng: 9:30 | 06/05/2019 Lượt xem: 1454

Việc mở Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh là một chiến công chói lọi trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Đường Trường Sơn là con đường của ý chí quyết thắng, của lòng dũng cảm, của khí phách anh hùng. Trên tuyến đường huyền thoại ấy, Đảng bộ, quân và nhân dân Quảng Nam đã ghi những dấu ấn khó phai mờ.

Bài 1: Mở đường Trường Sơn 

Trước khi đường Trường Sơn được mở ở Liên khu 5, thì trên dãy Trường Sơn đã có hệ thống đường mòn, đường giao bưu Bắc - Nam. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, từ tháng 3/1955, Liên khu ủy 5 chỉ đạo các Tỉnh ủy tổ chức các đường dây giao liên. Tại Quảng Nam, Tỉnh ủy chỉ đạo mỗi huyện thành lập một tổ gồm 4 - 5 đồng chí, do một huyện ủy viên phụ trách về các buôn làng móc nối xây dựng cơ sở. Mỗi buôn làng xây dựng một cơ sở gồm 2 thanh niên tích cực. Cơ sở này có nhiệm vụ soi đường hết sức bí mật từ làng mình sang làng khác và phải bắt được liên lạc với cơ sở của làng đó. Đồng thời, có nhiệm vụ chuyển tài liệu, đưa đón cán bộ. Đường dây giao liên từng bước hình thành bí mật, từ buôn làng này sang buôn làng khác. Đường dây này thường đi qua những khu rừng rậm, vượt núi cao, qua sông, phải tránh tất cả những con đường thường có người qua lại. 
Từ năm 1959 trở đi, ở Quảng Nam cũng như các tỉnh Liên khu 5 đã tổ chức các đoàn giao liên (đoàn hành lang). Các tuyến giao liên bí mật đi qua các buôn làng trong những năm đầu kháng chiến chống Mỹ là cơ sở thực tiễn để phát triển thành hệ thống đường nối hậu phương lớn với chiến trường Liên khu 5 nói riêng, chiến trường miền Nam nói chung, có ý nghĩa to lớn đối với những thắng lợi trên từng chiến trường. 
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, trước các chiến dịch “Tố cộng”, “Diệt cộng” hết sức dã man của Mỹ - Diệm,  nhân dân miền Nam đã đứng lên đấu tranh đánh đổ bọn Mỹ - Diệm. Trước tình hình đó, từ ngày 12 đến 22/01/1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở rộng đã xác định “Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam, phương pháp của cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đánh đổ quyền thống trị của đế quốc, phong kiến; trước mắt là đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thiết lập chính quyền cách mạng”.
Thực hiện Nghị quyết 15, ngày 19/5/1959, Thường trực Tổng Quân ủy chính thức giao nhiệm vụ cho “Đoàn công tác Quân sự đặc biệt” mở đường Trường Sơn, chi viện cho chiến trường miền Nam. Đoàn được mang phiên hiệu Đoàn 559. Đầu tháng 6/1959, Đoàn 559 tổ chức đội khảo sát mở tuyến vào Nam bắt đầu từ Khe Hó (nằm giữa một thung lũng ở tây nam Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị), sau đó vạch tuyến phát triển về hướng Tây Nam, điểm đặt trạm cuối cùng là Pa Lin, kế cận trạm tiếp nhận của Khu 5. Ngày 13/8/1959 chuyến hàng đầu tiên chính thức vượt Trường Sơn. Chuyến hàng đầu tiên tuy ít ỏi, song đã làm nức lòng cán bộ, chiến sĩ Khu 5, thể hiện quyết tâm của Đảng và tình cảm của Bác Hồ, của quân, dân miền Bắc gửi tới đồng bào, chiến sĩ miền Nam.
Đến năm 1960, địch phát hiện tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn của ta, nên chúng tập trung lực lượng và phương tiện quân sự đánh phá và chia cắt hết sức quyết liệt. Việc vận chuyển trên đường Trường Sơn (Đông) gặp nhiều khó khăn, hiệu suất thấp, thậm chí có thời gian phải ngừng hoạt động. Khắc phục tình trạng trên, Đoàn 559 kiến nghị Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng cho mở đường bộ về phía tây, qua nước bạn Lào, rồi rẽ về Tây Quảng Nam lên Kon Tum. 
Đến đầu năm 1961, đường Trường Sơn chính thức lật cánh sang phía tây. Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, tại thôn A Sò, xã A Nông, huyện Tây Giang là nơi khởi đầu cho tuyến đường Trường Sơn từ nước bạn Lào đi vào địa bàn tỉnh Quảng Nam với 12km. Trước đó, từ đầu năm 1960, để khống chế hành lang Việt - Lào, địch đã xây dựng dọc vùng ranh giới Việt - Lào tại nơi đây các đồn Atép, Apăl, Caxar... nhằm khống chế việc bộ đội ta mở đường từ Hạ Lào qua. Trên cao điểm 1484, do núi đá dựng đứng không thể lên được, địch cho máy bay chở lính đem theo hàng hóa, đạn dược nhảy dù làm đồn án ngự, khống chế. Những tưởng với đội quân được trang bị vũ khí tối tân đến tận chân răng kẽ tóc, chặn chốt ở những điểm yết hầu sẽ hạ gục ý chí mở đường của bộ đội Trường Sơn nhưng bộ đội Binh đoàn 559 đã lần theo đường mòn, vượt qua cao điểm 1484. Những năm tháng đó, ngày cũng như đêm, địch thi nhau bắn đạn xuống uy hiếp. Nhưng chúng không ngờ rằng, ngay ở dưới chân cao điểm, dọc theo sườn núi dựng đứng, bộ đội mở đường của Binh đoàn 559 dùng những cuốc, xẻng, xà beng, đục đá mở những con đường mòn ban đầu đủ một người đi, về sau cứ nới rộng ra dần để cho những đoàn quân âm thầm vượt qua làn bom rơi, đạn nổ ngay dưới chân địch. Sau khi tuyến đường Trường Sơn từ nước bạn Lào thông vào địa bàn huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam nhưng việc vận chuyển vũ khí, lương thực vượt qua biên giới đi qua ngay dưới họng súng của kẻ thù lại vô cùng khó khăn. Nhờ sự giúp đỡ của người dân của bản Klô, huyện Kờ Lùm (Lào) và đồng bào Cơtu của bản Asò, Arớt của xã A Nông, bộ đội Trường Sơn mới vận chuyển lương thực vũ khí vào chiến trường. 
Bị thất bại thảm hại trong cuộc hành quân đổ bộ xuống vùng Nà Ahu (Tây Giang), quân ngụy vẫn chưa chịu từ bỏ âm mưu xây dựng các chốt điểm ở miền núi huyện Hiên (nay là huyện Đông Giang và huyện Tây Giang). Năm 1964, chúng dùng máy bay lên thẳng đổ quân xuống Cơnoonh xây dựng chốt điểm trên cao ở gần chân núi Tà Xiên để phối hợp với đồn Ròró ở Giằng (nay là huyện Nam Giang) nhằm khống chế, uy hiếp đường Trường Sơn và kiểm soát vùng biên giới Việt - Lào. 
Về phía ta, đây là lúc nhân dân miền núi đang tấn công địch mạnh mẽ, quyết đẩy chúng ra khỏi núi rừng, lực lượng vũ trang đã có bước trưởng thành nhanh chóng. Với thế trận chiến tranh nhân dân vững chãi, vòng vây của ta ngày một siết chặt, “chốt điểm trên cao” của địch ở Cơnoonh ngày càng rơi vào thế cô lập hoàn toàn. Do đó, sau gần một năm đóng chốt, ngày 06/02/1965, quân ngụy buộc phải rút chốt điểm Cơnoonh. Đây là chốt điểm cuối cùng của quân ngụy trên núi rừng huyện Tây Giang cũng như huyện Đông Giang bị xoá bỏ.

 
Nữ TNXP Quảng Nam trên đường Trường Sơn

Bước sang năm 1965, do nhu cầu chiến trường ngày càng được mở rộng, bộ đội Trường Sơn tiếp tục mở đường vượt bến Giằng qua Nam Giang. Tại Nam Giang, con đường tách ra thành 2 tuyến. Đường chiến lược tây Trường Sơn vào Nam qua thôn 5, 6 thuộc xã Đắc Tôih, huyện Nam Giang rồi vào xã Phước Hiệp, huyện (Phước Sơn. Tuyến đường Đông Trường Sơn được chia làm 02 nhánh, một nhánh xuôi về đồng bằng Quảng Đà đi ngang qua xã Cha Vàl, Ra Ràng, A Xăh, Cà Dy, Bến Yên rồi đi xuống vùng B huyện Đại Lộc. Một nhánh khác đi rẽ xuống các xã Tàlu, Zahung, Đhrêi, Trung Mang do Đoàn vận tải Trung Sơn chuyên trách. 
Việc mở đường từ đường giao liên Nam - Bắc đến đường Trường Sơn được Đảng bộ và nhân dân huyện Nam Giang thực hiện rất khẩn trương với một quyết tâm: Tất cả để đánh Mỹ, tất cả để thắng Mỹ; giữ vững mạch máu giao thông chiến lược của cách mạng; thông đường, thông tuyến như giữ hơi thở của mình. Để giữ vững mạch máu giao thông, vận chuyển vũ khí, đạn dược cho chiến trường miền Nam, nhiều bộ đội, thanh niên xung phong đã hy sinh anh dũng. Sau một thời gian, bộ đội cùng với lực lượng thanh niên xung phong tiếp tục mở đường, lấp hố bom địch bắn phá đảm bảo cho xe thông tuyến từ Thạnh Mỹ lên Cà Dy (Nam Giang) đi qua 5 xã, thị trấn của Phước Sơn là Phước Xuân, Phước Mỹ, Phước Đức, Phước Năng và thị trấn Khâm Đức rồi mở ra cửa ngõ lên Tây Nguyên tại Đắck Lây (tỉnh Kon Tum). 
Khi tuyến đường Trường Sơn được khai phóng qua các huyện miền núi Quảng Nam, cũng là lúc mà Đảng bộ và nhân dân Quảng Nam đóng góp sức người, sức của vận chuyển lương thực, vũ khí và đạn dược cho khắp chiến trường.


Nguồn: Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 60 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh - Ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn (do Ban Tuyên giáo Trung ương phát hành), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng (1930-1975) và Lịch sử Đảng bộ huyện Nam Giang (1945-1975).

Tác giả: Lê Năng Đông

[Trở về]

» Đảng Cộng sản Việt Nam
     Khóa IX
     Khóa X
      Khóa XI
     Khóa XII
     Khóa XVIII
     Khóa XIX
     Khóa XX

     Khóa XXI
     Khóa XXII
Xem tất cả

Liên kết website

Thăm dò ý kiến

Bạn đánh giá như thế nào về cổng thông tin này?