Sau khi từng bước đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965-1966 và 1966-1967) của Mỹ - ngụy, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định, động viên những nỗ lực lớn lao của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định.
Chuẩn bị Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, tại Quảng Nam, Đặc khu Quảng Đà (tháng 10-1967, Khu ủy 5 quyết định sáp nhập tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng thành Đặc khu Quảng Đà), các ngành, các giới đã đẩy mạnh hoạt động. Các trung đoàn vận chuyển Trung Sơn, Nam Sơn và lực lượng thanh niên xung phong của tỉnh Quảng Nam và Đặc khu Quảng Đà giữ vai trò nòng cốt trong vận chuyển hàng hoá, vũ khí phục vụ cho chiến trường. Ban dân y Quảng Nam lập thêm một bệnh xá. Đội phẫu thuật của Ban dân y Quảng Đà từ Đại Lộc xuống vùng ven Hội An và đông Duy Xuyên.
Thực hiện chủ trương trên, tại huyện Nam Giang, đội dân công vận chuyển vũ khí của huyện Nam Giang được củng cố, do đồng chí Zơ Râm Pháo làm Đội trưởng, nhiệm vụ được giao cho đội là vận chuyển 300 tấn vũ khí từ Đắc Duúc, xã La Dêê xuống sông Thanh để bàn giao cho Đoàn Trung Sơn vận chuyển bằng đường thuỷ xuống Bến Giằng và sau đó lực lượng khác chuyển bằng đường bộ xuống các hướng chiến trường trong tỉnh. Để thực hiện nhiệm vụ, Đội chia đoạn đường vận chuyển thành 5 trạm, mỗi trạm cách nhau một ngày đường và bố trí từ 100 đến 120 dân công thường trực. Bên cạnh đó, để dốc toàn lực cho chiến dịch, lực lượng huyện đội và đại đội địa phương huyện cũng tham gia phối hợp với các xã. Lúc bấy giờ, trên trục đường Trường Sơn và các tuyến đường nhánh xuôi về đồng bằng, xe cơ giới, xe đạp thồ của các đơn vị tấp nập qua lại. Từ vùng cao đến vùng trung, xuống vùng thấp, người đi lên xuống nhộn nhịp khẩn trương đưa hàng ra mặt trận. Nhiều xã như Coong Năng, Ta Pơơ, Đắc Pring, Đắc Tôih thực hiện khẩu hiệu: “Đóng cửa nhà, trẻ già lên đường vận chuyển”. Từ tháng 12/1967 đến tháng 3/1968, toàn huyện Nam Giang đã huy động trên 790 dân công phục vụ thường trực trên các tuyến đường; huy động trên 71.100 lượt ngày công phục vụ tại chỗ, trong đó có 196 nam nữ thanh niên tình nguyện lên đường làm nghĩa vụ để bổ sung cho đoàn Trung Sơn, bộ đội địa phương huyện và ngành mậu dịch tỉnh.
Còn tại Đông Giang, từ ngày 26/12/1967 đến ngày 20/02/1968, nhân dân trong huyện túc trực trên các tuyến hành lang đường Trường Sơn, nhất là các cánh Trung, cánh Bắc và Đầu Gò (huyện Đại Lộc). Huyện uỷ tập trung lực lượng chỉ đạo công tác. Hầu hết nhân dân từ thiếu niên, nhi đồng đến phụ nữ, lão thành, hễ ai còn sức đều tham gia dân công phục vụ cuộc tiến công nổi dậy.
Tại Phước Sơn, với khí thế cách mạng sôi sục “cả huyện ra trận, cả nhà ra trận”, nhân dân các xã vùng thấp, vùng cao trong huyện, gồm hàng ngàn già trẻ, gái trai nô nức thi đua vận chuyển súng, đạn, lương thực phục vụ cho chiến trường. Đồng bào các dân tộc trong huyện cùng một lòng hăng hái đi dân công tiếp lương, tải đạn.
Với tinh thần “Đóng cửa nhà, trẻ già lên đường vận chuyển”, “cả huyện ra trận, cả nhà ra trận”, tất cả cho tiền tuyến, quân và dân các huyện miền núi Quảng Nam, Đặc khu Quảng Đà đã đóng góp sức người, sức của, tiếp lương, tải đạn cho tiền tuyến góp phần xứng đáng làm nên thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.
Sau Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, thực hiện chủ trương của Khu ủy 5, quân và dân Quảng Đà đã tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Khâm Đức - Ngok Ta Vak. Khai thông tuyến đường Trường Sơn từ từ Nam Giang lên Khâm Đức nối với Đắc Lây (Kon Tum) qua nước bạn Lào là cửa ngõ lên Tây Nguyên xuyên thẳng xuống Đông Nam bộ.
Khâm Đức có vị chiến lược hết sức quan trọng đối với cả ta và địch. Vì vậy, từ năm 1960, Mỹ - Diệm đã chọn Khâm Đức làm căn cứ huấn luyện biệt kích, đào tạo những đại đội biệt kích cơ động khét tiếng mệnh danh là “Hắc Hổ”, “Bạch Long Hổ”. Chúng cho xây dựng Chi khu quân sự Khâm Đức, biến nơi đây thành cụm căn cứ quân sự liên hoàn (Khâm Đức - Ngok Ta Vak), có sân bay quân sự và trung tâm huấn luyện biệt kích. Từ đây địch liên tục mở các cuộc càn quét, vây ráp, đốt phá bản làng, sát hại đồng bào, cướp bóc tài sản; làm hoa tiêu, chỉ điểm cho máy bay, pháo binh địch ném bom, bắn phá vùng giải phóng, cắt đứt hành lang chiến lược và sự chi viện của địa phương ra các chiến trường, gây biết bao tội ác với cách mạng và nhân dân. Cụm cứ điểm quân sự Khâm Đức - Ngok Ta Vak như một “ung nhọt” cần phải loại bỏ.
Thực hiện chủ trương của Khu ủy 5, từ ngày 9 đến ngày 12/5/1968, ta tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Khâm Đức - Ngok Ta Vak. Chiến thắng Khâm Đức - Ngok Ta Vak là chiến thắng lớn nhất của chiến trường Quảng Nam lúc bấy giờ. Là chiến thắng của tư tưởng tấn công, đánh mạnh vào nguỵ quân, nguỵ quyền tay sai, tiêu diệt một bộ phận quan trọng của Mỹ, mở rộng vùng hậu cứ cách mạng, khai thông hành lang chiến lược Bắc - Nam và Đông - Tây, khai thông hệ thống đường 14, nối liền hệ thống giao thông đường Trường Sơn, mở ra con đường vận tải cơ giới xuống vùng giáp ranh đồng bằng, tạo thời cơ để quân và dân ta đẩy mạnh chiến dịch Thu năm 1968 (Kế hoạch X2) trên toàn chiến trường Khu 5 giành thắng lợi.
Nguồn: Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam – Đà Nẵng (1930-1975), Lịch sử Đảng bộ huyện Nam Giang (1945-1975), Lịch sử Đảng bộ huyện Phước Sơn (1945-1975), Lịch sử Đảng bộ huyện Đông Giang (1945-2010).