Năm 1934, Huỳnh Ngọc Huệ học tại trường Kỹ nghệ Thực hành Huế, sau đó đồng chí được giữ lại dạy học ở trường. Thời gian này, Huỳnh Ngọc Huệ đã tham gia các phong trào đấu tranh yêu nước trong phong trào Thanh niên dân chủ ở Huế. Trong những ngày hoạt động sôi nổi ở Huế, Huỳnh Ngọc Huệ đã gặp và kết bạn với Nguyễn Kim Thành (tên thật của nhà thơ Tố Hữu). Cuối năm 1937, đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Sau đó, năm 1938, đó đồng chí Tố Hữu cũng được đứng vào hàng ngũ của Đảng, người kết nạp Tố Hữu vào Đảng không ai khác chính là đồng chí Trần Tống - cũng là người con ưu tú của quê hương Đại Lộc, Quảng Nam. Chi bộ do đồng chí Trần Tống làm Bí thư Chi bộ. Sau khi, đồng chí Trần Tống về lại Quảng Nam, đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ làm Bí thư Chi bộ. Từ đây, cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ và Nhà thơ Tố Hữu luôn gắn bó, song hành, cùng nhau chia ngọt, sẻ bùi trên những chặng đường cách mạng.
Sau khi sinh hoạt cùng chi bộ, hai đồng chí cùng nhau vận động học sinh ở các trường công và trường tư, đi vào các xóm công nhân trong thành phố và cả một số làng xã ngoại thành Huế. Với những tờ báo công khai của Đảng, các đồng chí đã tuyên truyền khơi gợi tinh thần yêu nước và tinh thần đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, tố cáo tội ác của bọn thực dân phong kiến, tổ chức các cơ sở cách mạng.
Với những hoạt động sôi nổi đó, Tố Hữu, Huỳnh Ngọc Huệ đã nằm trong tầm theo dõi của mật thám Pháp, vì vậy tháng 4-1939, đồng chí Tố Hữu bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ (Huế). Sau đó, đồng chí bị đày đi nhà đày Lao Bảo (Quảng Trị). Còn đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ, giai đoạn này để tránh bị mật thám theo dõi, đồng chí lánh vào Diêu Trì, tỉnh Bình Định. Tuy nhiên, tại đây, vào tháng 4-1940, đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ cũng bị địch bắt và chuyển về nhà lao Thừa Phủ, bị kết án một năm tù giam. Đầu năm 1940, Huỳnh Ngọc Huệ bị đày lên Đắk Glei, tỉnh Kon Tum.
Còn Tố Hữu, một thời gian sau, tháng 4-1941, đồng chí bị chúng đưa đi nhà tù Quy Nhơn, rồi đày lên nhà đày Đắk Glei. Trên đường bị đày lên Đắk Glei, mặc dù rất mệt, song đồng chí vẫn còn tỉnh táo, ngâm nga mấy câu:
Đường lên xá lạ Kon Tum,
Quanh quanh đèo chật, trùng trùng núi cao,
Thông reo bờ suối rì rào,
Chim chiều chiu chít, ai nào kêu ai!.
Điều đặc biệt, đây cũng chính là những câu đầu trong bài thơ Tiếng hát đi đày được Tố Hữu tặng người bạn Huỳnh Ngọc Huệ.
Sau khi bị đày lên Đăk Lây, Tố Hữu vui mừng vì gặp được những đồng chí, đồng đội của mình, trong Hồi ký của mình, đồng chí viết: “Nhưng sự đời cũng kỳ lạ. Tôi những tưởng Đắk Glei là một chốn hoang vu, ma thiêng nước độc ở cái xó rừng núi hẻo lánh này. Nào ngờ xe vừa đỗ bên đường, liền có mấy anh chạy đến. Có một người ôm hôn tôi, cầm tay, vỗ lưng cười ha hả. A! chú mày lên đây rồi! Chào nhà thơ! Tôi dụi mắt, nhìn kỹ xem ai vậy. Thấy ngay một người vạm vỡ, đầu hói, trán cao, miệng rộng và đôi mắt nhìn tôi vô cùng thân thiết. Té ra đó là anh Lê Văn Hiến, vâng anh Hiến yêu quý, tác giả của Ngục Kon Tum mà tôi quen năm xưa ở Đà Nẵng. Bên cạnh anh đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ, người thợ máy học trường Bách Nghệ ở Huế cùng chi bộ với tôi năm 1937 và còn bao nhiêu anh khác nữa”. Thật lạ, bị bắt giam, tù ngục nhưng nhà thơ Tố Hữu lại vui, vui vì gặp lại những đồng chí, đồng đội, những người cùng chiến hào.
Lúc này phong trào cách mạng ở bên ngoài gặp nhiều khó khăn trước những đợt khủng bố dã man của kẻ thù, nhiều cơ sở bị bể vỡ, nhiều đảng viên kiên trung bị địch bắt, tra tấn, tù đày. Tình thế lúc này yêu cầu bằng mọi cách phải xây dựng lại cơ sở, nhất là vùng nông thôn, vùng núi. “Có ai hiểu nỗi hờn ghê gớm/ Trên mắt người trông với núi sương/ Núi hỡi, từ đây băng xuống đó/ Chừng bao nhiêu dặm, mấy đêm trường? Nhất định thế, tôi sẽ vượt khỏi cái trại tập trung khốn kiếp này…”. Phải vượt ngục, vượt ngục! Đó là suy nghĩ và quyết tâm của Tố Hữu.
Từ quyết tâm ấy, đồng chí Tố Hữu đã bàn bạc với người bạn Huỳnh Ngọc Huệ: “Mày với tao về Quảng Nam. Tìm lại các mối rồi gây dựng dần phong trào”. Cả hai thống nhất, bàn kế hoạch và được các đồng chí Lê Văn Hiến, Chu Huy Mân, Nguyễn Duy Trinh giúp sức, tuy nhiên khó khăn nhất là việc thông thạo đường đi lối về, tránh bị địch phát hiện bắt trở lại. Thế là gay rồi! Tố Hữu nói. Huỳnh Ngọc Huệ đã gặp riêng Tố Hữu và nói: “Tao thuộc đất Quảng Nam, quê tao. Thôi đi Đông khó lọt. Hai đứa mình cứ nhắm hướng Bắc mà đi, đi rồi cũng đến”.
Thống nhất kế hoạch, cả hai phân công chuẩn bị cho chuyến vượt ngục. Cả hai sẽ cải trang thành người dân tộc Kà Tu (Cơ Tu). Đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ được phân công sang bên bản Đăk Bla kín đáo dò hỏi đường đi, nếu có ai tốt đưa đường càng hay. Còn đồng chí Tố Hữu lo sắm các đồ cần thiết: chăn, quấn áo, dao rựa và một đùm muối…”. Đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ sang Đăk Bla về nói: “Họ bảo về Giằng (Quảng Nam) chỉ dăm bảy ngày đường, có lối rừng đi dễ, chẳng cần ai dẫn”.
Sau khi chuẩn bị xong, sáng sớm ngày 14-3-1942, hai đồng chí vẫn đi làm như những ngày bình thường, rồi sau đó lẻn vào rừng! Vượt ngục. Sau 27 ngày đêm trong rừng Trường Sơn với: Đọt lau, rau má, vải xanh/ Đói lòng hát khúc quân hành vẫn vui. Về đến làng Rô, bên dòng Đăk mi, Huỳnh Ngọc Huệ và Tố Hữu được Già Làng cho ăn ngủ. Rồi tính đường về xuôi.
Trong đêm khuya, nghe Già làng nói như báo hiệu một nguy cơ nào đó: Ở đây gần đồn Giằng khách muốn về lúc nào cũng được. Nghe nói đến đồn Giằng, các đồng chí đã rùng mình, phải nhanh chóng đi thôi! Sáng hôm sau, cô con gái của già làng đã dậy từ rất sớm chuẩn bị cho hai đồng chí hai bọc xôi và dẫn hai đồng chí đi băng qua khu rừng rậm, ra đến đường cái thì gặp một toán người buôn. Nhưng không ngờ người toán trưởng này lại giúp đỡ và trả tiền đò để các đồng chí về Đại Lộc.
Về Đại Lộc, hai người chia tay nhau, Huỳnh Ngọc Huệ ra Đà Nẵng tìm và xây dựng lại cơ sở, còn đồng chí Tố Hữu lên làng Thừa Bình, quê nhà đồng chí Trần Tống, lúc này đồng chí Trần Tống còn ở trong nhà đày Buôn Ma Thuột.
Năm 1973, trong chuyến công tác vào Nam, từ Đắc Tô, đồng chí Tố Hữu về Quảng Nam, sau một thời gian trèo đèo, lội suối, đồng chí về đến Cơ quan Khu ủy 5 tại Nước Là (Nam Trà My). Nhớ về Bến Giằng, Tố Hữu hỏi đường về làng Rô. Qua trò chuyện với một cụ già, đồng chí vô cùng nghẹn ngào khi hay tin, già làng từng nuôi giấu mình vượt ngục năm ấy! Tên là già Đễ đã chết lâu rồi! còn cô con gái là Đỡ cũng đã chết vì sốt rét. Còn Huỳnh Ngọc Huệ - người bạn vượt ngục cũng đã từ trần ngày 27/4/1949, do bị nhiễm trùng uốn ván.
Nghe đến đây, đồng chí Tố Hữu và những đồng chí đi cùng, ai cũng rưng rưng nước mắt, sao đồng bào dân tộc mình tốt đến thế. Đồng chí Đinh Đức Thiện – người cùng đi với nhà thơ Tố Hữu, nói với anh em lấy lương khô, mấy cân đường trắng, muối, lại thêm mấy hộp cá đem ra làm tiệc mời bà con.

Đ.c Tố Hữu (thứ 3 từ trái qua) trong lần về thăm huyện Đại Lộc quê hương đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ
|
Nghẹn ngào khi cảm xúc về làng Rô ùa về, nhớ ơn Làng Rô, nhớ ơn già làng Đễ và cô con gái Đỡ. Nhớ về cuộc vượt ngục cùng với người bạn Huỳnh Ngọc Huệ. Trong trường ca Nước non ngàn dặm, Tố Hữu đã dành nhiều đoạn viết về người bạn Huỳnh Ngọc Huệ, về làng Rô, về Già Đễ, về cô gái Sông My, trong đó có đoạn:
Đường đi, như sự tình cờ
Con sông My, lại bây giờ lần theo
Vượt tù xưa, bước gieo neo
Cùng dòng thác ấy, ngủ treo đầu cành
Đọt lau, rau má vả xanh
Đói lòng, hát khúc quân hành vẫn vui
Nhớ thương bạn, lại bùi ngùi
Nhớ làng Rô, nhớ người nuôi năm nào
Ghé thăm, lòng xót xa sao!
Bến sông lửa cháy, bom đào bãi lau
Hỏi Già, Già mất, còn đâu
Hỏi em, em đã từ lâu chết rồi!
Ôi! Làng Rô nhỏ của tôi
Cao cao ngọn núi, chiếc nôi đại bàng
Trăm năm ta nhớ ơn làng
Cánh tay che chở bước đường gian nguy
Thương em, cô gái sông My
Nắm xôi đưa tiễn anh đi qua rừng
Anh đi, làng hỏi thăm chừng
Làng xưa, anh vẫn nhớ từng người xa
Hôm nay như trở lại nhà
Bữa cơm dưa muối cũng là liên hoan
Non cao rực rỡ ánh vàng
Đêm rằm vằng vặc bến Giàng trăng lên…
Hôm gặp lại làng Rô…
Sau này, mỗi lần có dịp nhắc về Huỳnh Ngọc Huệ, Nhà thơ Tố Hữu thường nói: “Ở Đăk Lây cũng như ở Huế, tôi được biết Huỳnh Ngọc Huệ là đồng chí có tinh thần cách mạng kiên cường, tính tình trung hậu chất phác, chân thành và ngay thẳng với đồng chí và bạn bè, là người cộng sản trung thành mẫu mực”.
Thật trân trọng biết bao về tình bạn cảm động và thiêng liêng giữa hai người chiến sĩ cộng sản kiên trung. Trong tình cảm thiêng liêng và cảm động giữa Huỳnh Ngọc Huệ và Nhà thơ Tố Hữu, không thể không nhắc đến tình cảm thiêng liêng của đồng bào các dân tộc miền Núi Quảng Nam giành cho Đảng, cho Bác Hồ, trong đó có già Đễ và cô con gái tên Đỡ. Dù khó khăn, gian khổ nhưng vẫn chia sẻ, đùm bọc và bảo vệ cán bộ. Nhớ ơn tình cảm thiêng liêng này, Nhà thơ của Tố Hữu khái quát bằng những câu thơ chan chưa nghĩa tình “Ôi! Làng Rô nhỏ của tôi/ Cao cao ngọn núi, chiếc nôi đại bàng/ Trăm năm ta nhớ ơn làng/Cánh tay che chở bước đường gian nguy”.
_________________________
(1): Tố Hữu (2000): Nhớ lại một thời (hồi ký), Nxb Hội nhà văn, tr.74.
(2): Nhớ lại một thời (hồi ký), sđd, tr.74.